Trung Tâm Dạy Nghề Thanh Xuân hướng dẫn Tìm hiểu về hệ thống tự chẩn đoán động cơ OBD
OBD là chữ cái được viết tắt bởi cụm từ “On – Board Diagnostics”. Có thể được dịch là “Hệ thống chẩn đoán lỗi trên động cơ” hoặc “Hệ thống chẩn đoán lỗi trên xe”. Có nhiều người vẫn nhầm lẫn giữa từ “Chuẩn đoán và chẩn đoán”. Khi động cơ gặp phải lỗi, ECU sẽ điều khiển để đèn MIL (Malfunction Indicator Light, còn gọi là đèn Check Engine) báo sáng để các chủ xe hay các kỹ thuật viên sửa chữa biết được xe đang gặp vấn đề và cần phải khắc phục. Đây là lúc nhiệm vụ của cổng OBD liên tiếng khi bạn sẽ phải xác định lỗi bằng các thao tác đọc lỗi trên giắc chẩn đoán DLC (Diagnostic Link Connector) của xe.
Các bạn có thể hiểu đơn giản rằng ECU của động cơ có thể tự phát hiện trong hệ thống đang hoạt động như thế nào và có xảy ra những trục trặc hay hư hỏng gì không, hoặc hệ thống động cơ đang hoạt động không tốt thì lúc này ECU sẽ tự set thành những mã lỗi và lưu lại trong bộ nhớ
Khi động cơ gặp phải lỗi, ECU sẽ điều khiển để đèn MIL (Malfunction Indicator Light, còn gọi là đèn Check Engine) báo sáng để các chủ xe hay các kỹ thuật viên sửa chữa biết được xe đang gặp vấn đề và cần phải khắc phục. Đây là lúc nhiệm vụ của cổng OBD liên tiếng khi bạn sẽ phải xác định lỗi bằng các thao tác đọc lỗi trên giắc chẩn đoán DLC (Diagnostic Link Connector) của xe. Đối với ngày trước, việc đọc mã lỗi cho các xe đời cũ có thể thao tác bằng tay thông qua số lần nháy của đèn chớp, nhưng với ô tô hiện đại thời nay, chỉ cho phép đọc bằng máy chẩn đoán để đảm bảo sự chính xác và độ an toàn cao.
Mục đích khi OBD ra đời
Một lý do duy nhất khi OBD ra đời là để đáp ứng yêu cầu về khí thải và bảo vệ môi trường. Để đối phó với nạn sương mù ở Mỹ, Từ năm 1966 tại bang California đã yêu cầu kiểm soát các vấn đề về khí thải trên các xe sản xuất ra năm đó và có hiệu lực trên toàn liên bang Mỹ vào năm 1968.
Sau đó viện bảo vệ môi trường EPA (Environmental Protection Agency) cũng ra đời vào năm 1970 do quốc hội Mỹ thành lập. Sau đó họ đã ban hành một loạt các tiêu chuẩn về khí thải cũng như các yêu cầu về bảo dưỡng xe để đạt được lượng khí thải tiêu chuẩn trong phạm vi cho phép mà họ đặt ra.
Các tiêu chuẩn ngày càng nhiều nhiều hơn và khắc nghiệt hơn. Nó yêu cầu các nhà sản xuất ô tô phải ứng dụng các công nghệ điện tử vào trong điều khiển động cơ bởi sự chính xác từ các dữ liệu được đưa vào ECU từ các cảm biến.
Khi mà thời điểm đánh lửa và lượng phun nhiên liệu được điều khiển bằng ECU tối ưu hơn so với điều khiển bằng cơ khí. Dần dần, theo xu hướng tất cả các hãng sản xuất ô tô đều ứng dụng các công nghệ điện tử vào trong việc điều khiển động cơ và từ đó hệ thống OBD ra đời.
Các loại OBD
Có rất nhiều tiêu chuẩn OBD như các loại tiêu chuẩn OBD giành cho Châu Mỹ, châu Âu, Nhật Bản. Tuy nhiên, hiện nay các khái niệm OBD trên chẩn đoán thường chỉ nhắc đến 2 loại chính đó là OBD I và OBD II.
OBD I là chuẩn OBD đầu tiên bắt đầu từ năm 1980 mà các hãng xe đã sử dụng trong việc chẩn đoán xe trên từng dòng xe khác nhau và chưa có sự đồng nhất. Như đã nêu ở trên, việc đảm bảo các yêu cầu từ vấn đề khí thải mà mỗi hãng xe đã phát triển riêng cho mình một loại chuẩn OBD I. Nó khác về các dạng giắc kết nối, giao thức kết nối, thiết bị kết nối và cả cách thức xác định mã lỗi.